“Hồng Bàng thị truyện” như một truyền thống được kiến tạo của người Việt Nam
thời trung đại [VI]
By: Liam C. Kelley
Người dịch: Hoa Quốc Văn
Lạc và Hùng
Sau khi lần theo một phả hệ từ Thần Nông đến Lạc Long Quân, Hồng Bàng thị truyện kết thúc với một lời luận bàn về các vua Hùng và nước Văn Lang. Thông tin trong phần cuối này, giống như toàn bộ các thông tin trước, không thể tìm thấy trong các nguồn tư liệu lịch sử Trung Hoa, trừ một trường hợp không hoàn toàn – cái tên “Hùng”. Một nguồn tư liệu lịch sử Trung Hoa chép rằng có những vị thủ lĩnh ở đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỉ thứ nhất trước CN được gọi là “Hùng”. Tuy nhiên, cũng có những nguồn tư liệu khác khẳng định rằng những vị thủ lĩnh này được gọi là “Lạc”. Sự không nhất quán này là cội nguồn của một cuộc tranh luận đã được thổi bùng lên lúc mạnh lúc yếu suốt thế kỉ trước.
Đó là học giả Pháp, Henri Maspero, người bắt đầu cuộc tranh luận này vào đầu thế kỉ XX khi ông lưu ý rằng trong các nguồn tư liệu lịch sử Trung Hoa những kí tự để ghi cả “Lạc” [雒] và “Hùng” [雄] xuất hiện trong một đoạn văn đề cập đến những vị thủ lĩnh ở Đồng bằng sông Hồng trước khi xuất hiện sự cai trị của Trung Hoa trong khu vực này. Maspero khảo xét những nguồn tư liệu này và kết luận rằng một người sao chép Trung Hoa đã chép nhầm từ “Lạc” [雒] sang “Hùng” [雄] vào một thời điểm nào đó, và người Việt đơn thuần chỉ duy trì lỗi chép nhầm này. Maspero không phủ nhận rằng đã từng có những vị thủ lĩnh ở Đồng bằng sông Hồng trước khi có sự sáp nhập vùng đất này vào đế chế Tần và Hán. Thay vào đó, ông đơn thuần cho rằng những vị thủ lĩnh này được gọi là Lạc hơn là Hùng(59). Tuy nhiên, có một vẻ ngạo mạn thực dân trong nhận định của Maspero rằng người Việt Nam đơn thuần chỉ sao lại một lỗi lầm mà chẳng nhận ra nó và từ đó đã gọi những vị vua lập nước của mình bằng một khái niệm sai lầm qua nhiều thế kỉ. Hiểu rõ giọng điệu và những ngụ ý trong quan niệm của Maspero, ta không ngạc nhiên khi nhận định của ông rốt cuộc gây ra nhiều tranh cãi. Sự tranh cãi bắt đầu từ thập kỉ 1940, và cho đến cuối thập kỉ 1960 đầu thập kỉ 1970 nó đạt đến một kết luận mang tính chính trị, theo đó ngả về cái tên “Hùng”(60). Tuy nhiên, nó cũng phải tiến đến một kết luận khoa học. Trong khi các học giả bàn luận liên miên về việc chọn chữ nào là đúng, lạc hay hùng, thì ít người tranh luận về đoạn văn lớn hơn mà trong đó có các chữ xuất hiện ở những nguồn tư liệu Trung Hoa cổ xưa. Tuy nhiên, khi nhìn vào đoạn văn và lịch sử văn bản của nó, đáp án cho câu hỏi khái niệm nào đúng hơn trở nên rõ ràng hơn.
Sự tranh cãi này tập trung xung quang và nguồn tư liệu được cho là gốc. Hai trong số đó có chứa chữ “Lạc”, và một chứa chữ “Hùng”. Tất cả các công trình này nay đã mất, nhưng những đoạn văn [còn lại] của chúng được trích dẫn trong các tác phẩm hiện còn. Nguồn tư liệu chính đầu tiên là Giao Châu ngoại vực kí. Những chứng cớ về văn bản gợi ý rằng công trình này có niên đại từ hoặc cuối thế kỉ III hoặc đầu thế kỉ IV sau CN(61). Đoạn văn trong công trình này có chép về những vị thủ lĩnh xưa ở Đồng bằng Sông Hồng được bảo lưu trong cuốn Thuỷ kinh chú ở thế kỉ VI của Lịch Đạo Nguyên. Trích dẫn:
“Giao Châu ngoại vực chí chép rằng ‘trong quá khứ, trước khi Giao Chỉ có quận và huyện, vùng đất này đã có ruộng Lạc. Ruộng này theo sự lên xuống của nước lũ, và vì vậy người dân đã khai khẩn ruộng này để trồng cấy, họ được gọi là dân Lạc. Lạc vương và Lạc hầu được bổ nhiệm để cai trị các quận huyện khác nhau. Nhiều huyện có các lạc tướng. Lạc tướng đeo ấn đồng treo trên dây thao xanh”(62).
Đoạn văn này chứa đựng những thông tin trái ngược. Nó có ý miêu tả một giai đoạn trước khi Trung Hoa vào cai trị (tức là trước khi người Trung Hoa thiết lập “các quận và huyện””), nhưng nó lại dùng thuật ngữ Trung Hoa, như “hầu”, “tướng”, “huyện”, và “ấn đồng buộc trên dây thao xanh” trong sự miêu tả của nó. Điều này tạo ra sự bối rối. Ai bổ nhiệm các Lạc vương/hầu? Những người có “ấn đồng treo trên dây thao xanh” là ai? Làm thế nào Lạc dân từng cai trị “các quận huyện” nếu họ sống ở một giai đoạn trước khi có sự thiết lập [các đơn vị hành chính] quận và huyện? Cuối cùng, một điểm khác biệt không rõ ràng ở đoạn văn này là: khái niệm “Lạc” chỉ cái gì? Trong đoạn văn, chữ này thể hiện một âm của tiếng nước ngoài hơn là nghĩa. Nhiều học giả đã cho rằng nó hẳn phải biểu thị cái gì đó trong một thứ ngôn ngữ bản xứ có liên quan đến lời khẳng định rằng “Ruộng này theo sự lên xuống của nước lũ”, rồi văn bản khẳng định rằng “vì vậy người dân đã khai khẩn ruộng này để trồng cấy, họ được gọi là Lạc dân”. Tuy nhiên, bản thân chữ này chẳng cung cấp chứng cứ gì ngoài việc nó rõ ràng được dùng để tái hiện một âm hơn là một nghĩa.
Nguồn tài liệu có nội dung gốc khác hàm chứa khái niệm “Lạc”, và thường được trích dẫn trong cuộc tranh cãi dài lâu này, là một công trình được biết đến dưới nhiều cái tên. Một văn bản đề cập đến nó có tên là Ích Châu truyện, và một tiền thân của văn bản tương tự có đề cập đến nó có tên là Quảng Châu kí. Chúng ta hãy dừng lại một chút ở đây để khảo sát dấu tích về văn bản của nguồn tư liệu này, như nó đã bộc lộ nhiều về bản chất của những nguồn tài liệu mà cuộc tranh luận về “Hùng” hay “Lạc” đã dựa vào.
Có một cuốn biên niên sử Trung Hoa cổ được biết với cái tên Sử kí được soạn vào thế kỉ đầu sau CN. Sau đó, ở thế kỉ VIII, một học giả có cái tên Tư Mã Trinh đã viết một tập bình luận cho văn bản này lấy tên là Sử kí sách ẩn. Trong tập bình luận này, Tư Mã Trinh đưa vào hầu như toàn bộ thông tin tương tự về đồng bằng sông Hồng như đã trích ở trên. Nguồn của trích dẫn này là một công trình có tên Ích Châu truyện. Tuy nhiên, Tư Mã Trinh đã chỉ ra trong lời bình luận của mình rằng, ông đã thực sự không được tham khảo văn bản này. Thay vào đó, ông thu được thông tin ấy từ một trích dẫn trong một công trình được viết bởi một “Diêu thị” nào đó. Nhiêu Tông Di đã xác định rằng Diêu thị này có thể là Yao Cha (Diêu …)?, một học giả/quan chức đã qua đời ở đầu thế kỉ VII và là người đã viết phần bình luận, phần này nay đã không còn, cho cuốn Hán thư. Có lẽ xuất phát từ cuốn này mà Tư Mã Trinh đã thu được đoạn trích về Đồng Bằng Sông Hồng vốn có nguồn gốc từ Ích Châu truyện.
Vậy là ở thế kỉ VIII, Tư Mã Trinh đã trích dẫn một công trình của Yao Cha, một học giả/quan chức đã chết ở thế kỉ trước, người lại trích dẫn sách Ích Châu truyện. Đối với văn bản mà Yao Cha đã trích, không rõ khi nào nó được viết, và do ai. Nhiêu Tông Di tìm thấy một ít văn bản có cái tên hoặc là Ích Châu truyện hoặc là Ích Châu kí có từ các giai đoạn triều Hán, thời Tam Quốc và thời Lương (206 trước CN – 557 sau CN). Vì vậy, trong khi không rõ chính xác bao giờ Ích Châu truyện như trích dẫn của Tư Mã Trinh được soạn, thì đoạn văn về đồng bằng sông Hồng của nó như sau:
“Triệu thị dẫn Ích Châu truyện, trong đó nói rằng: Giao Chỉ có Lạc điền, ruộng ấy dựa vào sự lên xuống của nước lũ. Người dân sống cạnh ruộng ấy được gọi là Lạc dân. Ở đó có Lạc vương và lạc hầu. [Thủ lĩnh] các quận khác nhau tự gọi mình là Lạc tướng. Với ấn đồng treo trên dây thao xanh, họ giống như những quan địa phương các huyện hiện nay”(63).
Hẳn nhiên là đoạn văn này rõ ràng hơn đoạn văn tương tự trong Giao Châu ngoại vực kí. Những vấn đề như thông tin trái ngược về Lạc vương và Lạc hầu được bổ nhiệm cai trị các quận và huyện ở một giai đoạn trước khi các quận huyện được thiết lập, và nghi vấn về người bổ nhiệm họ, đã được loại trừ.
Một ít thế kỉ sau khi Tư Mã Trinh thâu nhập thông tin này vào lời bình luận của ông cho sách Sử kí, thông tin này được giản hoá còn xa hơn. Nó xuất hiện khi lời bình luận của Tư Mã Trinh, cho đến thời điểm này nó đã là một văn bản độc lập, được sáp nhập vào thực thể văn bản Sử kí và được xuất bản kết hợp cả chính văn và phần bình luận ở thời Nam Tống (1127 – 1279 sau CN). Khi điều này xảy ra, vì lí do nào đó tên của văn bản mà Diêu thị đã tham khảo nhiều thế kỉ trước đã được đổi tên từ Ích Châu truyện thành Quảng Châu kí. Một số thay đổi cũng được tiến hành khi trích dẫn đoạn văn, đến nỗi nó xuất hiện như dưới đây:
Trong phần “Sách ẩn” (ở Sử kí), Diêu thị đã dẫn Quảng châu kí trong đó nói rằng “Giao Chỉ có ruộng Lạc, ruộng đó dựa vào sự lên xuống của nước. Nhân dân sống ở bên ruộng ấy được gọi là Lạc hầu. Những thủ lĩnh cấp huyện khác nhau tự gọi họ là Lạc tướng. Với ấn đồng treo trên dây thao xanh, họ giống như những quan địa phương các huyện hiện nay”(64).
Thêm vào sự thay đổi tiêu đề, sự khác nhau đáng chú khác trong phiên bản này là nó không còn đề cập đến “Lạc dân” hay “Lạc vương” nữa. Đây là một điểm quan trọng mà chúng tôi sẽ còn trở lại. Ở đây, chúng ta hãy thuần tuý lưu ý rằng rõ ràng thông tin này, được quy cho hoặc Ích Châu truyện hoặc Quảng Châu kí, đã trải qua những lĩnh vực phức tạp của quá trình truyền tin và nó đã thay đổi dọc theo con đường đó. Từ văn bản có thể là bản nguồn nào đó, thông tin này được trích dẫn bởi Diêu thị ở thế kỉ VII, sau đó ông này lại được Tư Mã Trinh trích dẫn lại ở thế kỉ VIII, ở đây những bình luận của Tư Mã Trinh được thay đổi khi chúng được gộp vào một ấn bản mới của cuốn Sử kí, cuốn này được soạn trong thời Nam Tống ở khoảng thế kỉ XII đến XIII.
Nguồn tư liệu cơ bản cuối cùng nói về những thủ lĩnh cổ xưa ở Đồng bằng sông Hồng là cuốn Nam Việt chí. Công trình này được cho là của học giả thế kỉ V, Thân Hoài Viễn(65). Ngày nay, chúng ta biết về công trình này khi nó được trích dẫn trong 2 cuốn “loại thư” ở thế kỉ thứ 10. Có một phiên bản dài hơn của tư liệu này nằm trong cuốn Thái Bình quảng kí, và ngắn hơn trong cuốn Thái Bình hoàn vũ kí. Đoạn văn dài hơn trong Thái Bình quảng kí như sau:
“Đất Giao Chỉ khá là phì nhiêu. Cư dân sống ở đó, và cho đến khi [những cư dân gốc] học cách trồng trọt bằng cách gieo hạt. Đất trồng ở đó đen và màu mỡ, và Khí rất mạnh [hùng]. Vì vậy, ruộng đất ở đó nay được gọi là ruộng Hùng, và người dân, được gọi là dân Hùng. Có những người cầm đầu được gọi là Hùng vương. Có những người hầu cận được gọi là Hùng hầu, và đất đai được chia cho các Hùng tướng (Đoạn này xuất phát từ Nam Việt chí)(66).
Có một vài điểm cần lưu ý về đoạn văn này. Trước hết là đoạn văn này, như trong Ích Châu truyện và Quảng Châu kí, đã bỏ sót sự đề cập đến “các quận và huyện”. Văn bản này không chỉ ra rằng nó đang đề cập đến một thời điểm nào đó trong quá khứ, trước thời Trung Hoa cai trị, như trong Giao Châu ngoại vực kí đã làm. Kết quả là, nó loại trừ những mâu thuẫn rõ ràng về nghĩa, như khẳng định rằng có người được bổ nhiệm cai trị những quận huyện trong một giai đoạn trước khi có sự thiết lập các quận huyện, và đề cập đến các con dấu bằng đồng xâu dây thao xanh – trang phục Trung Hoa của các quan chức – trong giai đoạn trước khi Trung Hoa cai trị này.
Điểm tiếp theo phải lưu ý là chữ “Hùng” trong đoạn văn này thể hiện nghĩa, chứ không phải âm, như khái niệm “Lạc” trong các văn bản trên kia. Cái “khí” trong đất mạnh [hùng], và bởi vì vậy nên nhân dân ở vùng này cũng được gọi là Hùng, hay mạnh. Nói khác đi, tác giả này không đơn thuần là mắc một sai lầm khi sao chép và viết “Hùng” trong khi đáng lẽ phải viết “Lạc”, như Maspero nhận định. Thay vào đó, ông thay đổi đột ngột đoạn văn này cho phù hợp với nghĩa của khái niệm “Hùng” nghĩa là “mạnh”. Để làm điều này, ông đã thêm thông tin vào phần mở đầu của đoạn văn về việc đất ấy phì nhiêu và khí nơi đây thì mạnh, và rồi kết nối thẳng từ “Hùng” với nghĩa “mạnh” này với những cái tên của đất và người nơi đây.
Nếu chứng cớ về mức độ kiến tạo thông tin của tác giả này ở đây vẫn còn chưa rõ ràng, thì chúng ta cũng cần phải chỉ ra rằng mệnh đề “đất đen và màu mỡ” là một bản sao rất gần gũi với thiên “Vũ cống” trong Thượng thư, nơi nó viết rằng “”đất nhẹ và màu mỡ”(67). Đây không phải là một biểu ngữ phổ biến trong Hán cổ. Thay vào đó, tác giả này rõ ràng đang mô phỏng dòng văn trong Thượng Thư. Ngược lại, đoạn văn tương tự trong hai văn bản trên không cho thấy chứng cứ nào về sự vay mượn từ các văn bản khác [của chúng].
Một mẫu hình xuất hiện khi người ta xem xét tất cả những thông tin ở trên. Rõ ràng là thông tin này chúng tôi tìm thấy trong cái được cho là những nguồn thông tin khác biệt rốt cuộc tìm thấy ngọn nguồn từ một nguồn thông tin gốc. Mỗi một câu chuyện cung cấp những thông tin cơ bản giống nhau trong trật tự giống nhau và về cơ bản là bằng cùng một cách thức. Cũng hiển nhiên là thông tin này được trích dẫn đi trích dẫn lại. Hơn nữa, mỗi lần được trích dẫn là một lần mới có tiềm năng khiến cho một người sao chép nào đó thay đổi đoạn văn. Điều này rõ ràng xảy ra với cái phiên bản chứa đựng chữ “Lạc”. Đặc biệt, (các) tác giả đã thay đổi đoạn văn để khiến cho thông tin trở nên rõ ràng hơn và loại bỏ những mâu thuẫn. Đã biết rằng phiên bản chứa đựng chữ “Hùng” cũng cung cấp những thông tin cơ bản tượng tự trong cùng thứ tự và cung cách, và rằng những sự thay đổi mà nó chứa đựng khiến cho thông tin này rở nên rõ ràng hơn, sẽ là logic khi kết luận rằng phiên bản chứa đựng chữ “Hùng” được tạo ra bởi một người sao chép bằng việc thay đổi từ phiên bản có chữ “Lạc” sang để khiến cho văn bản trở nên rõ ràng hơn.
Ở thập kỉ 1950, học giả Pháp Émile Gaspardone đã xem xét các đoạn văn có chữ “Lạc” và “Hùng” rồi cho rằng chúng cấu thành hai truyền thống lịch sử khác nhau. Trong khi nhận ra một cấp độ của sự song hành giữa hai phiên bản, thì ông lại tập trung nhiều hơn và nội dung của chúng để lập luận rằng chúng thể hiện việc ghi chép một dạng thông tin giống nhau dưới những hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Ông nghĩ rằng, truyền thống “Lạc” tái hiện một ghi ghi chép sớm hơn về khu vực, khi người Trung Hoa lần đầu tiên đến và thấy nhân dân sống ở khu vực này đã dựa vào những dòng nước lũ để tiến hành việc trồng trọt. Khi nhiều người Trung Hoa hơn định cư ở vùng này – một thực tế mà Gaspardone nghĩ là được chỉ ra bởi cụm từ “những du dân định cư” trong sách Nam Việt chí – họ quen thuộc hơn với vùng đất này và với những thuộc tính của đất đai nơi đây. Gaspardone cho rằng ở điểm này ai đó đã tạo ra một phiên bản mới của những thông tin tương tự, những thông tin phản ánh tri thức gần gũi hơn rằng người Trung Hoa bây giờ đã giành được khu vực này và đất đai “mạnh mẽ” [hùng] của nó(68).
Trong một phụ lục về vấn đề Lạc và Hùng ở cuốn Sự hình thành của Việt Nam, Keith Taylor đã lược lại thuyết của Gaspardone và rồi góp thêm một sự diễn giải đôi chút sai dị để giải thích những khác biệt giữa các văn bản. Ông lưu ý cái cách Quảng Châu chí không hề nhắc đến vị vua nào, trong khi Giao Châu ngoại vực kí và Nam Việt chí đều chép. Từ đó ông cho rằng sự đề cập đến các vị vua ở hai văn bản sau “dường như phản ánh sự gạn lọc các truyền thống truyền thuyết Việt Nam khi chúng đi vào các nguồn tư liệu văn học Trung Hoa”(69). Nói khác đi, trong khi Gaspardone thấy một sự biến đổi trong các văn bản chỉ cho ông thấy một sự phát triển trong tri thức của người Trung Hoa về khu vực này, Taylor cho sự biến đổi trong các văn bản là sự tích hợp các tri thức của người Việt vào các nguồn tư liệu Trung Hoa.
Cái thống nhất công trình của Gaspardone và Taylor là niềm tin rằng những biến đổi trong nội dung của các văn bản nhiều khả năng là kết quả của những biến đổi về bối cảnh ở đồng bằng Sông Hồng. Tuy nhiên, rõ ràng điều này không phải sự thật. Lập luận của Taylor, dựa trên sự vắng bóng của bất kì sự đề cập nào đến các vị vua trong Quảng Châu kí, là một ví dụ hoàn hảo về điều này. Như chúng ta thấy ở trên, văn bản này được trích dẫn lần đầu tiên trong một ấn bản của Sử kí, công trình được soạn vào thời Nam Tống. Trong công trình này, Quảng Châu kí được đề cập đến trong một lời bình được cho là của Tư Mã Trinh. Tuy nhiên, văn bản gốc của Tư Mã Trinh lại trích dẫn Ích Châu truyện chứ không phải Quảng Châu kí. Hơn nữa, lời bình luận của Tư Mã Trinh vốn có đề cập đến các vị vua. Trong khi đó, chính cái tiêu đề, Quảng Châu kí, và sự vắng bóng của bất kì đề cập nào đến các vị vua trong cái văn bản được cho là có này, đều là những sự phát triển về văn bản rất muộn về sau. Và chúng phát triển vì những nguyên nhân chẳng liên quan gì đến hiện thực của bối cảnh ở đồng bằng sông Hồng..
Vì vậy, rốt cuộc Maspero đã đúng khi cho rằng “Lạc” là khái niệm đúng. Tuy nhiên, ông đã sai khi khẳng định rằng một người chép văn bản Trung Hoa nào đó đã đơn thuần mắc lỗi khi sao chép chữ này và viết thành “Hùng”. Trong khi những người sao chép Trung Hoa không nghi ngờ gì nữa có thể mắc sai lầm, giống như những người sao chép thời trung đại ở những phần khác của thế giới, thì họ cũng biến đổi một cách có cân nhắc các văn bản họ “sao chép”. Trong trường hợp thông tin về đồng bằng sông Hồng, rõ ràng những người sao chép đã nhiều lần thay đổi thông tin này qua các thế kỉ. Chúng ta có thể thấy sự biến đổi dần dần đối với phiên bản “Lạc” và một sự biến đổi kịch đột ngột hơn với sự sáng tạo ra phiên bản “Hùng”, song tất cả các văn bản này đều tuân theo một mẫu hình chung và thể hiện thông tin tương tự. Theo đó, rõ ràng là có duy nhất một truyền thống, một truyền thống nỗ lực giản lược và gạn lọc những thông tin rắc rối, và khái niệm “Hùng” được tạo ra chính trong quá trình này.
Maspero cũng đã sai khi khẳng định rằng người Việt chỉ đơn thuần sao chép lại một chữ sai, vì họ rốt cuộc đã kiến tạo ra một cái gì đó mới bằng cách sử dụng cả “Hùng” và “Lạc” [trong cùng một đoạn văn]. Trong khi Liệt truyện chép rằng các vua của Văn Lang được gọi là các vua “Hùng”, thì nó lại khẳng định rằng “các quan văn được gọi là Lạc hầu, và các vị tướng được gọi là Lạc tướng””(70). Nói khác đi, bất kì ai viết Hồng Bàng thị truyện cũng đã không chép bất kì một văn bản sớm đơn nhất nào, mà thay vào đó, sáng tạo ra cái gì đó mới dựa trên các văn bản phức tạp. Cũng có điều thú vị cần lưu ý là khi Liệt truyện giới thiệu khái niệm “Hùng”, nó thực hiện điều đó bằng cách lưu ý rằng 50 người con trai theo Âu Cơ “tôn người có khả năng lên làm thủ lĩnh, gọi ông là Vua Hùng”(71). Điều có ý nghĩa ở đây là từ biểu thị ý “có khả năng” (“hùng trưởng”) cũng chứa đựng chữ “hùng” vốn được dùng trong cái tên “Hùng vương”. Khi người ta xem xét việc bất kì ai đã viết thông tin này có lẽ cũng là người chọn cái tên “Hùng vương” và cận thần của vương là “Lạc”, trò chơi chữ ở đây có lẽ đã chỉ ra logic đằng sau một quyết định như thế.
Các học giả hiện đại đã lập luận rằng sự hoà trộn hai khái niệm này trong Liệt truyện này chứng minh rằng “những cái tên thật” của các vua Hùng và các cận thần được truyền miệng qua nhiều thế kỉ bởi “nhân dân”. Chứng cứ cho kiểu lập luận này là sự vắng bóng của bất kì chứng cứ nào về việc sử dụng như thế trước sự xuất hiện của Liệt truyện. Các nguồn tư liệu Trung Hoa sớm hơn dùng hoặc “Hùng” hoặc “Lạc”, vì thế sự hiện diện của cả hai khái niệm trong cùng một nguồn tư liệu Việt Nam là bằng chứng đối với một số học giả Việt Nam về sự truyền miệng từ thời cổ xưa. Tuy nhiên, những khẳng định thế này không đưa đến cái mức độ thừa kế các văn bản sớm hơn của phần còn lại của văn bản Liệt truyện. Sự thảo luận trên đây bao trùm những liên kết cơ bản giữa các đoạn văn trong Hồng Bàng thị truyện và các văn bản khác nhau. Tuy nhiên, nhiều phương diện khác của tài liệu này cũng ủng hộ tuyên bố rằng nó là một sự kiến tạo thời trung đại.
Chẳng hạn, có nhiều vấn đề với những khái niệm địa lí trong văn bản. Liệt truyện đề cập rằng Văn Lang được chia làm 15 bộ. Maspero đã chỉ ra gần một thế kỉ trước rằng những cái tên của một số “bộ” đó được đặt ra trong thời Trung Hoa cai trị, và vì vậy không thể áp dụng cho thời kì sớm hơn. Maspero cũng đưa ra vấn đề thảo luận về sự thật của cái tên “Văn Lang”, một khái niệm cũng đầy tính vấn đề như khái niệm “Hùng”(72). Sự mô tả về phạm vi của nước Văn Lang cũng là một vấn đề. Văn bản nói rằng nước “dựa vào Nam hải ở phía Đông, phía Tây đến tận Ba Thục [tức là Tứ Xuyên]. Về phía Bắc, nó kéo dài đến Hồ Động Đình, và về phía Nam nó gặp nước Hồ Tôn (ngày nay là vương quốc Champa)”(73). Trong khi các học giả Việt Nam tiền hiện đại nghi ngờ về độ xác thực của tuyên bố này, không ai, như tôi được biết, đã từng chú ý đến sự tương đồng về phong cách giữa đoạn văn này với sự mô tả về phạm vi nước Ba của người Tứ Xuyên cổ trong Hoa Dương quốc chí. Văn bản này chép rằng “Đất của nó kéo đến tận phía Đông ở Yufu, và về phía Tây nó kéo đến tận Ba Chu. Về phía Bắc nó nối với Hán Trung và về phía Nam, nó kéo dài đến tận Qianfu”(74).
Trong khi đó, học giả Trung Hoa Nhiêu Tông Di đã chỉ ra từ nhiều thập kỉ trước rằng câu chuyện này rõ ràng được gợi hứng bởi những nhân tố từ văn học và lịch sử Trung Hoa qua những điểm đã nói ở trên. Ông cho rằng, câu chuyện về Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương tương lai, cho phép anh trai cùng cha khác mẹ của ông kế tục ngai vàng, vang vọng lại một câu chuyện nổi tiếng về một người đàn ông có tên Ngô Thái Bá, người đã cho phép em trai mình leo lên ngai vàng. Cuộc tuần du của Đế Minh xuống phương Nam, trong đó ông lấy được một người vợ, gợi nhớ đến cuộc tuần du của Đế Thuấn thời cổ xuống phương Nam, nơi ông chết và được hai người vợ khóc than. Thực tế rằng các vua Hùng đều được gọi là “Hùng” ở mỗi thế hệ gợi nhớ đến các vị vua của nhà Chu, những người đều được gọi là “Mi” ở mỗi thế hệ. Con số 100 đứa con trai của Âu Cơ dường như có liên hệ với Bách Việt, những người được cho là sống ở khu vực Nam Trung Hoa thời cổ(75). Do đó, khi người ta xem xét tổng thể tài liệu này, với tất cả những phương thức mà nó dùng để phản chiếu thông tin từ các văn bản khác, việc nhìn ra sự truyền miệng ở giữa những sự chịu ảnh hưởng và vay mượn về văn bản khá đậm nét như vậy trở nên cực kì khó khăn.
Chú thích
59. Maspero, “Études d’histoire d’Annam,” 7.
60. Về một cái nhìn toàn cảnh khá triệt để về những quan điểm khác biệt nảy ra trong sự tranh cãi về các chữ “lạc” và “hùng”, xem Huệ Thiên, Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm: nghiên cứu, trao đổi về ngữ văn và lịch sử [Beating Drums Before Houses of Thunder: Research and Exchanges Concerning Language and History] (HCMC: Trẻ, 2004), 113 – 127. Mức độ mà một quyết định chính trị, hơn là một quyết định học thuật vươn tới trong cuộc tranh luận này được làm rõ trong bài viết này. Trong khi đó, Keith Taylor khẳng định trong The Birth of Vietnam rằng ông mong có thể khảo sát vấn đề này xa hơn trước khi xác định khái niệm nào là chính xác, và rằng ông sẽ tạm thời dùng khái niệm “Hùng” “như nó đã được dùng thành truyền thống bởi các sử gia Việt Nam”. Xem Taylor, The Birth of Vietnam, 307.
61. Nhiêu Tông Di, “Annan gushi shang Anyang wang,” 42.
62. “交州外域記曰,交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上
下,民墾食其田,因名為雒民。設雒王雒侯主諸郡縣。縣多為雒將。
雒將銅印青綬.” Xem Lịch Đạo Nguyên, biên soạn., Thuỷ kinh chú [Annotated Classic of Waterways], (khoảng 515 – 524 sau CN), 37/7a–b. Có một khái niệm trong đoạn văn này là “triều/chao,” mà nhiều học giả Việt Nam dịch là “thuỷ triều” vì cho rằng người Việt Nam đang lợi dụng thuỷ triều để làm nông nghiệp. Trong khi khái niệm này có thể có nghĩa là thuỷ triều, nó cũng chỉ những mực nước sông dân lên. Trong ngữ cảnh này, “nước lụt” đối với tôi có nghĩa hơn. Cũng lưu ý rằng chữ “vương/wang,” có thể được dịch là “vua” hoặc “ông hoàng”.
62. “姚氏按益州傳云:交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為駱人。
有駱王﹑駱侯。諸縣自名為駱將,銅印靑綬,卽今之令長.” Xem Tư Mã Trinh, Sử kí sách ẩn [Searching for Hidden Meanings in the Historical Records], Tứ khố toàn thư bản (thế kỉ XVIII), 25/7b.
64. “索隱姚氏按廣州記云,交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為駱侯,諸縣自名為駱將,銅印青綬,即今之令.” Xem Tư Mã Thiên, Sử kí [Historical Records], Tứ khố toàn thư bản, (thế kỉ I sau CN), 113/3b.
65. Bạch Diệu Thiên 白耀天, “Lạc Việt khảo” [Investigation of Luo and Yue], trong Tráng học luận tập [Collection of Discussions on Zhuang Studies]. Qin Naichang và Pan Qixu bt (Nanning: Guangxi Minzu Chubanshe, 1995), 86.
66. “交趾之地頗爲膏腴,徙民居之,始知播植,厥土惟黑壤,厥氣惟雄,
故今稱其田為雄田,其民為雄民,有君長亦曰雄王,有輔佐焉亦焉曰雄侯,
分其地以為雄將。(出南越志).” Xem Lý Phưởng và những người khác., Thái Bình quảng kí, 482/6b. Về bản rút gọn, xem Nhạc Sử 樂史, Thái Bình hoàn vũ kí [Record of the World in the Taiping Era], (thế kỉ X), 170/10a.
67. Xem Thượng thư, “Vũ cống” [Tribute of Yu].
68. Émile Gaspardone, “Champs Lo et Champs Hiong,” Journal Asiatique [Asian Journal] 243, no.4 (1955): 461 – 477.
68. Taylor, The Birth of Vietnam, 307.
69. LNCQLT, 1/15b.
70. Như trên., 1/15a.
71. Maspero,“Études d’histoire d’Annam,” 1 – 7.
72. LNCQLT, 15b.
73. Xem Phan Thanh Giản và những người khác., Khâm định Việt sử thông giám cương mục [Imperially Commissioned Itemized Summaries of the Comprehensive Mirror of Việt History], (1881), Bản in: A.2674, TiềnBiên [Preliminary Compilation], Chương/Trang: 1/4a–b, về một cuộc thảo luận ở thế kỉ XIX về phạm vi địa lí được cho của nước Văn Lang. Về trích dẫn về nước Ba, xem Thường Cừ,Huayang guo zhi, 1/2b.
75. Nhiêu Tông Di, “Annan gushi shang Anyang wang,” 47.
[Còn nữa]
Tags: Hồng Bàng thị truyện; Kinh Dương Vương; Lạc Long Quân; Âu Cơ; Văn Lang; Xích Quỷ; Động Đình, lịch sử, truyền thuyết, Việt Nam, vua Hùng., văn học